Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

Sinh con theo ý muốn cho những cặp vợ chồng bị HIV

Chồng bị nhiễm HIV, làm thế nào để sinh con không bị nhiễm?

Sanh được một đứa con khỏe mạnh là mong ước muốn của tất cả cặp vợ chồng bình thường nói chung và những cặp vợ chồng bị nhiễm HIV nói riêng. Thực sự đây là ước muốn chính đáng và cũng là quyền được làm cha mẹ của những cặp vợ chồng không may bị nhiễm virus HIV. 

Nếu không may một cặp vợ chồng nhiễm HIV, việc có con sẽ gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là làm thế nào để không lây nhiễm cho người kia. Vấn đề ở đây là chỉ người chồng bị nhiễm, nên mục tiêu là làm sao giảm nguy cơ lây nhiễm từ chồng sang vợ, đồng thời đảm bảo sức khỏe cho người vợ khi mang thai và sanh được một đứa con khỏe mạnh.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, HIV có thể có trong tinh dịch và các tế bào không phải là tinh trùng ở trong tinh dịch. Hiện cũng chưa tìm thấy HIV tồn tại bên trong tinh trùng. Có thể nói tinh dịch và các tế bào không phải tinh trùng trong tinh dịch là các nguồn chứa HIV. Trong khi những tinh trùng sống và di động tốt không bị nhiễm HIV do bề mặt tinh trùng không có CD4+ và thụ thể CCR5. Phát hiện trên mở cánh cửa hy vọng sanh được em bé khỏe mạnh cho  các bà mẹ có chồng bị nhiễm HIV.
Để người vợ không bị nhiễm HIV khi mang thai và sanh được em bé mạnh khỏe, tinh trùng sẽ được xử lý bằng các kỹ thuật lọc, rửa (chuẩn bị tinh trùng). Các kỹ thuật chuẩn bị tinh trùng này có thể giúp loại trừ hoặc giảm thiểu số lượng virus để có thể truyền bệnh. Sau đó nhờ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc thụ thai của phụ nữ với chồng nhiễm HIV sẽ trở nên an toàn và hiệu quả.

Mong muốn được làm cha mẹ của những cặp vợ chồng không may bị nhiễm virus HIV. Có hai kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được ứng dụng trong trường hợp này là:

1. Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo:
Trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, phần tinh trùng sau khi đã được lọc rửa sẽ được bơm trực tiếp vào buồng tử cung người vợ. Dù vậy, vẫn có lo ngại là một số virus vẫn còn có thể sót lại trong mẫu tinh trùng sau xử lý.
Việc sử dụng thêm các thuốc kháng virus để giảm số lượng virus trong tinh dịch xuống thấp nhất và giảm khả năng lây nhiễm cho người vợ được khuyến cáo .
Với các kỹ thuật PCR hiện đại, ta có thể định lượng được số lượng ARN của virus có trong máu, tinh dịch và trong mẫu tinh trùng bơm vào buồng tử cung. Sau khi kiểm tra số lượng virus trong tinh dịch đã giảm, tiếp tục kiểm tra số lượng virus có trong mẫu tinh trùng sau xử lý. Nếu kết quả cho âm tính thấp, nghĩa là không tìm thấy virus trong mẫu tinh trùng sau xử lý, thì có thể thực hiện thụ tinh nhân tạo một cách an toàn.

2. Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm:

Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mẫu tinh trùng sau khi xử lý không tiếp xúc trực tiếp với cơ thể người vợ. Tinh trùng và trứng sau khi được thụ tinh bên ngoài sẽ được đưa vào trong tử cung.
Đặc biệt, nếu kết hợp với tiêm tinh trùng trực tiếp vào bào tương trứng trưởng thành để tạo phôi (ICSI) thì chỉ cần lấy 1 tinh trùng trong mẫu tinh trùng sau xử lý thì nguy cơ lây nhiễm cho người vợ gần như được loại hẵn.
Việc kết hợp điều trị thuốc kháng virus cho chồng trước khi áp dụng thụ tinh trong ống nghiệm và kiểm tra số lượng virus trong mẫu tinh dịch để biết số lượng virus trong tinh dịch đã giảm. Sau đó, áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và sử dụng tiêm tinh trùng trực tiếp vào bào tương trứng trưởng thành để tạo phôi.
Với phác đồ trên, khả năng lây nhiễm từ chồng sang vợ đã được loại trừ gần như hoàn toàn. Người vợ có thể có thai một cách an toàn, đồng thời em bé cũng không có khả năng bị lây nhiễm.
Tóm lại, cả hai kỹ thuật thụ tinh nhân tạo (bơm tinh trùng sau xử lý vào buồng tử cung) và thụ tinh trong ống nghiệm (có thể kết hợp với ICSI) nói chung đều an toàn cho người vợ, khả năng lây nhiễm là rất thấp hoặc gần như triệt tiêu. Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm với ICSI độ an toàn gần như tuyệt đối nhưng chi phí cao và tỉ lệ thành công cũng cao hơn. Tỉ lệ có thai cao hơn cũng giúp số lần điều trị (hay số lần tiếp xúc với nguy cơ) để có thai giảm đi, nguy cơ lây nhiễm cuối cùng lại càng thấp hơn.

PIYAVATE sẽ giúp bạn biến mơ ước của mình thành hiện thực. Chúng tôi sẽ giúp mang một thiên thần đến với mái ấm của bạn.

Liên hệ để biết thêm chi tiết:
Lê Thuận - Phụ trách tư vấn
Mobile:     0938 994 298/ 093 77 66 056
Email:     P8@piyavate.com.vn
Address:  Số 2 Thi Sách, phường Bến Nghé, quận 1, Hồ Chí Minh
                Tel: (84 8)66 812 591
                33A phạm Ngũ lão, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
                Tel: (84 8)66 812 591


Loại bỏ các bệnh di truyền khi thực hiện IVF


Xét nghiệm các loại bệnh di truyền 


Chỉ cần thực hiện một xét nghiệm gene duy nhất, các ông bố bà mẹ sẽ biết trong tương lai bào thai con họ có bị ảnh hưởng bởi các bệnh di truyền hay không, một nhóm khoa học Anh đã khẳng định.

Các xét nghiệm hiện nay hoặc là chỉ chú trọng vào các đột biến gene hoặc mất thời gian lâu để biết kết quả. Chẳng hạn, bệnh viện có thể kiểm tra phôi trước khi cấy chúng vào tử cung của phụ nữ để xem chúng có mang đột biến gene nào hay không, nếu gia đình họ từng bị ảnh hưởng bởi một bệnh di truyền.

Một tế bào sẽ được lấy ra từ phôi chỉ vài ngày tuổi để xét nghiệm. (Ảnh: BBC)
Một xét nghiệm do Bệnh viện Guy ở London đưa ra 2 năm trước thì tìm hiểu các "vân tay" gene, bằng cách kiểm tra toàn bộ ADN của một tế bào. Tuy nhiên, kỹ thuật mới nhất - còn được gọi là karyomapping, phân tích nhiễm sắc thể - là loại xét nghiệm "một cho tất cả" độc nhất vô nhị đến nay.

Quy trình xét nghiệm và đối chứng như sau:
Các bác sĩ sẽ lấy ra một tế bào từ phôi 8 ngày tuổi, được tạo ra từ quá trình thụ tinh trong ống nghiệm. Sau đó, mẫu ADN của bố và mẹ cũng được thu thập. Ngoài ra, người ta cũng sẽ lấy mẫu ADN của một thành viên khác trong gia đình, có thể là một đứa trẻ đã bị ảnh hưởng bởi bệnh di truyền.
Sau cùng, ADN của tất cả các thành viên trong gia đình sẽ được so sánh, đối chứng ở 300.000 vị trí cụ thể, cho phép tạo ra một bản đồ gene của dòng họ.
Nhờ bản đồ này, các chuyên gia có thể biết liệu một nhóm gene (đã di truyền từ ông bà sang đứa trẻ bị bệnh) có mặt trong bào thai mới này hay không.
Giáo sư Alan Handyside, người phát triển (test) thí nghiệm nói trên, cho biết: "Các loại (test) thí nghiệm hiện nay chỉ có thể xác định được một số nhỏ các khuyết tật. Mà một trong các lo lắng của phụ huynh là không có loại xét nghiệm nào có thể biết được bệnh tật cụ thể của họ. Đây là loại (test) thí nghiệm đơn nhất - một phương pháp tổng thể" có thể biết bào thai có bệnh di truyền trong tương lai hay không.
Phương pháp này đã đượcthực nghiệm tại Trung tâm Bridge, song song với các loại xét nghiệm truyền thống để bác sĩ có thể kiểm tra kết quả.


PIYAVATE sẽ giúp bạn biến mơ ước của mình thành hiện thực. Chúng tôi sẽ giúp mang một thiên thần đến với mái ấm của bạn.

Liên hệ để biết thêm chi tiết:
Lê Thuận - Phụ trách tư vấn
Mobile:     0938 994 298/ 093 77 66 056
Email:     P8@piyavate.com.vn
Address:  Số 2 Thi Sách, phường Bến Nghé, quận 1, Hồ Chí Minh
                Tel: (84 8)66 812 591
                33A phạm Ngũ lão, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
                 Tel: (84 8)66 812 591

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

Sinh con gái theo ý muốn - 0938 994 298

Lựa Chọn Giới Tính Cho Thai Nhi tại Piyavate




      Một trong những lý do phổ biến nhất mà bệnh nhân lựa chọn điều trị tại Thái Lan là lựa chọn giới tính. Trong cuộc sống hiện đại mỗi gia đình thường chỉ sinh 1 – 2 bé và muốn cân bằng giới tính trong gia đình. Nếu sử dụng phương pháp này có thể lựa chọn chính xác giới tính thai nhi như mong muốn. Ngoài ra, bệnh nhân muốn lựa chọn sinh đôi hoặc muốn có một bé trai, một bé gái thì phương pháp này hoàn toàn có thể làm được.

Hơn nữa, Thái Lan được biết đến là vương quốc cho phép đẻ mướn và có những lợi thế chính có thể lựa chọn được giới tính, vấn đề này hoàn toàn hợp pháp ở Thái Lan. Đối với một số quốc gia không cho phép lựa chọn giới tính như Anh,  Ấn Độ,… và một số tiểu bang Hoa Kỳ. Nhưng nếu các cặp vợ chồng muốn sinh con lựa chọn giới tính thì hoàn toàn có thể tại Thái Lan hoặc đối với những cặp vợ chồng khổng thể mang thai mà muốn có con thì đây là một sự chọn tối ưu ở vương quốc này.


Lựa chọn giới tính ở Thái Lan có một lịch sử lâu dài từ những ngày khi các thầy lang truyền thống sử dụng các loại thảo mộc và các loại thuốc truyền thống khác để thử với mong muốn có thể thực hiện được mong muốn bé trai hoặc bé gái. Tuy nhiên, với những tiến bộ trong y học ngày nay, với việc sử dụng công nghệ tiên tiến nhất để hổ trợ trong sinh sản và làm thế nào để  sinh được đúng bé trai hoặc bé gái theo yêu cầu của bệnh nhân.

Làm thế nào để lựa chọn giới tính tại Thái Lan?
Với PGD, khoảng ngày thứ ba, sau khi trứng đã được thụ tinh, khả năng sinh sản bác sĩ sẽ loại bỏ một tế bào từ một phôi thai đang phát triển ở giai đoạn di động 8. Tế bào sẽ được phân tích dưới kính hiển vi để xem xét các nhiễm sắc thể của tế bào. Nếu có hai nhiễm sắc thể X, nó là cái phôi thai gái. Nếu có một X và một nhiễm sắc thể Y, đó là phôi thai trai. Sau đó bác sĩ mới cấy ghép phôi thai mong muốn vào tử cung người  mẹ hoặc người thay thế. Phương pháp này an toàn, đáng tin cậy và không gây ảnh hưởng gì tới phôi thai. Một cách khác nữa mà các bác sĩ có thể lựa chọn được giới tính bằng cách chọn một tinh trùng mang nhiễm sắc thể giới tính Y, để nó sẽ cặp với nhiễm sắc thể X của trứng, nếu cha, mẹ muốn có một cậu bé. Nếu cha mẹ muốn có một bé gái thì sẽ chọn một tinh trùng mang nhiễm sắc thể X, để nó sẽ phù hợp với nhiễm sắc thể X của trứng.
Bảo quản lạnh (đông lạnh phôi)
Các bác sĩ chuyển khoa sinh sản sẽ chọn những phôi thai  khả thi để chuyển phôi cho người mẹ thay thế hoặc mẹ dự định. Nếu bạn không thực hiện ở chu kỳ đầu tiên của bạn và muốn làm một chu kỳ khác, bệnh viện có thể đóng băng phôi của bạn thông qua bảo quản lạnh. Bạn cũng có thể sử dụng các phôi đông lạnh của bạn để có thêm một đứa con trong tương lai.
Ngoài các dịch vụ này, tại bệnh viện Piyavate cũng cung cấp thêm các phương pháp điều trị khả năng sinh sản. Hãy liên hệ với Piyavate để tìm hiểu thêm về lựa chọn giới tính tại Thái Lan và làm thế nào có thể giúp bạn thực hiện ước mơ  giữ em bé  trong vòng tay của bạn.
PIYAVATE sẽ giúp bạn biến mơ ước của mình thành hiện thực. Chúng tôi sẽ giúp mang một thiên thần đến với mái ấm của bạn.

Liên hệ để biết thêm chi tiết:
Lê Thuận - Phụ trách tư vấn
Mobile:     0938 994 298/ 093 77 66 056
Email:     P8@piyavate.com.vn
Address:  Số 2 Thi Sách, phường Bến Nghé, quận 1, Hồ Chí Minh
                 Tel: (84 8)66 812 591
                33A phạm Ngũ lão, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
                 Tel: (84 8)66 812 591


Các kỹ thuật hổ trợ sinh sản - Sinh co theo ý muốn

CÁC KỸ THUẬT HỔ TRỢ  SINH SẢN TẠI BỆNH VIỆN PIYAVATE

1/ Thụ tinh trong ống nghiệm – IVF (In-vitro Fertilization)
Phương pháp này thường được chỉ định khi:
• Tắc vòi trứng
• Tinh trùng ít, yếu, dị dạng (không đủ để bơm tinh trùng vào buồng tử cung)
• Không có tinh trùng, phải lấy tinh trùng từ mào tinh, tinh hoàn
• Vợ lớn tuổi
• Bơm tinh trùng nhiều lần thất bại.

Tóm tắt kỹ thuật:
      - Kích thích buồng trứng cho vợ.
      - Chọc hút trứng.
      - Chuẩn bị tinh trùng chồng.
      - Cấy tinh trùng và trứng trong môi trường nhân tạo để hình thành phôi.
      - Chuyển phôi vào buồng tử cung cho vợ. 

2/ Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng - ICSI (Intracytoplasmic Sperm Injection)
ICSI có nghĩa là tiêm tinh trùng trực tiếp vào trứng để tạo phôi. Với kỹ thuật TTTON bình thường, một số trường hợp tinh trùng không thể tự thụ tinh do bất thường về thụ tinh, dẫn đến không có phôi để chuyển vào buồng tử cung. Với kỹ thuật ICSI, có thể tránh gần như hoàn toàn các trường hợp trên.

Chỉ định của ICSI:
• Vô sinh nam (tinh trùng ít, yếu, dị dạng nhiều, không tinh trùng trong tinh dịch phải lấy tinh trùng bằng phẫu thuật)
• Bất thường thụ tinh
• Vô sinh không rõ nguyên nhân
• Thất bại với thụ tinh ống nghiệm bình thường 

Tóm tắt kỹ thuật:
      - Kích thích buồng trứng.
      - Chọc hút trứng.
      - Chuẩn bị tinh trùng.
      - Dùng hệ thống vi thao tác, tiêm trực tiếp 1 tinh trùng vào trứng.
      - Chuyển phôi vào buồng tử cung. 

3/ Trưởng thành trứng trong ống nghiệm – IVM (Invitro Maturation of Oocytes)
Trong IVM, trứng chưa trưởng thành được lấy ra từ buồng trứng chưa được kích thích, bệnh nhân không cần chích thuốc kích thích buồng trứng nhiều như trong thụ tinh ống nghiệm bình thường. Thực hiện phương pháp này sẽ giảm được nhiều chi phí và tránh được hội chứng quá kích buồng trứng. Tuy nhiên thường chỉ phụ nữ có buồng trứng đa nang mới là đối tượng thích hợp để thực hiện IVM.

Tóm tắt kỹ thuật:
• Tiêm thuốc hỗ trợ buồng trứng trong 3 ngày
• Chọc hút trứng non.
• Nuôi trứng non trong lab.
• Chuẩn bị tinh trùng
• Trứng và tinh trùng được cho thụ tinh (thường bằng kỹ thuật ICSI – Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng).
• Kiểm tra chất lượng phôi, hỗ trợ phôi thoát màng nếu có chỉ định.
• Chuyển phôi vào buồng tử cung.

4/ Thụ tinh ống nghiệm xin trứng – Oocyte donation

Chỉ định khi nguyên nhân vô sinh là do buồng trứng người vợ (vợ lớn tuổi, suy buồng trứng sớm)
Tóm tắt kỹ thuật:
·          Kích thích buồng trứng người cho trứng
·          Chuẩn bị tử cung cho người nhận
·          Chọc hút trứng của người cho
·          Chuẩn bị tinh trùng (của chồng người nhận)
·          Cho trứng và tinh trùng thụ tinh (bằng kỹ thuật IVF hoặc ICSI)
·          Chuyển phôi vào buồng tử cung người nhận

5/ Chuyển phôi trữ - Frozen Embryo Transfer (FET)
Trong chu kỳ thụ tinh ống nghiệm đầu tiên, nếu vì lý do nhất định không thể chuyển phôi ngay hoặc đã chuyển phôi mà còn phôi dư, các phôi đạt tiêu chuẩn sẽ được trữ lại để sử dụng cho những lần sau.

Trong chu kỳ chuyển phôi trữ:
·          Chuẩn bị nội mạc tử cung người vợ bằng nội tiết
·          Rã đông phôi
·          Chuyển phôi sau rã đông vào buồng tử cung

6/Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng sau rã đông
Trong chu kỳ thụ tinh ống nghiệm đầu tiên, vì lý do nhất định phải trữ lạnh trứng (chồng không lấy được tinh trùng…), trứng được rã đông để sử dụng cho lần sau

Tóm tắt kỹ thuật:
·          Chuẩn bị nội mạc tử cung cho người vợ
·          Rã đông trứng
·          Tiêm trực tiếp tinh trùng vào trứng
·          Chuyển phôi vào buồng tử cung
·          
7/ Các kỹ thuật hỗ trợ khác
a/ Trữ tinh trùng
Tinh trùng được trữ lạnh trong các trường hợp: 
·          Lưu trữ tinh trùng của người cho
·          Người chồng không thể tới bệnh viện lấy tinh trùng vào ngày chọc hút trứng
 Trước khi điều trị một số bệnh lý của người chồng như: mổ u tinh hoàn, hoá trị, xạ trị ung thư…

b/ Phẫu thuật lấy tinh trùng
Đây là phương pháp điều trị vô sinh không tinh trùng do tắc nghẽn (không tìm thấy tinh trùng trong tinh dịch do tinh trùng không thể ra bên ngoài). Nguyên nhân tắc nghẽn thường gặp là do bẩm sinh, nhiễm trùng đường sinh dục hoặc do thắt ống dẫn tinh. 

Phẫu thuật lấy tinh trùng bao gồm nhiều phương pháp:

-Lấy tinh trùng từ mào tinh bằng vi phẫu thuật (Microsurgical Epididymal Sperm Aspiration-MESA): Đây là phương pháp thu tinh trùng bằng phẫu thuật ở mào tinh. Tỷ lệ thành công trong việc thu được tinh trùng bằng MESA thường từ 90% trở lên.

-Lấy tinh trùng từ mào tinh bằng xuyên kim qua da (Percutaneous Epididymal Sperm Aspiration-PESA): Lợi điểm của PESA là ít xâm lấn hơn MESA, có thể thực hiện được nhiều lần, đơn giản hơn và mẫu tinh trùng thu được thường ít lẫn máu và xác tế bào. Do đó, PESA là một trong những phương pháp nên chọn lựa đầu tiên ở những trường hợp không có tinh trùng do tắc nghẽn, với tỷ lệ thành công khoảng 65%.

-Lấy tinh trùng từ tinh hoàn bằng chọc hút (Testicular Sperm Aspiration-TESA):
Dùng kim đâm xuyên qua da vào mô tinh hoàn và hút tinh trùng ra. Ở những người sinh tinh bình thường, tỷ lệ thu được tinh trùng trên 80%.

 -Lấy tinh trùng từ tinh hoàn bằng phẫu thuật xẻ tinh hoàn (Testicular Sperm Extraction-TESE): Ở những bệnh nhân có rối loạn quá trình sinh tinh, tỷ lệ thu được tinh trùng vào khoảng 50%. Những đối tượng này, nên sử dụng kỹ thuật TESE hơn là TESA do thu được tinh trùng nhiều hơn. 

8/ Kỹ thuật Hỗ trợ phôi thoát màng

Sau khi trứng và tinh trùng thụ tinh với kỹ thuật IVF hoặc ICSI, phôi được chuyển vào buồng tử cung để làm tổ và phát triển thành thai. Bao bên ngoài phôi là màng trong suốt. Trong một số trường hợp, lớp màng này bị cứng chắc bất thường hoặc không mỏng đi trong quá trình phôi phát triển. Điều này làm cho phôi không thể thoát ra ngoài và bám vào nội mạc tử cung để làm tổ. Dựa trên giả thuyết đó, kỹ thuật làm mỏng hoặc làm thủng màng trong suốt bên ngoài phôi đã ra đời, giúp phôi dễ thoát ra ngoài và làm tổ vào tử cung hơn. Nhờ đó giúp cải thiện tỉ lệ thành công khi làm thụ tinh trong ống nghiệm.

Phương pháp này đặc biệt hiệu quả trong các trường hợp:
• Bệnh nhân thất bại nhiều lần mặc dù chất lượng phôi tốt
• Bệnh nhân chuyển phôi trữ lạnh
• Bệnh nhân ít phôi, lớn tuổi
• Bệnh nhân có phôi có màng trong suốt dày bất thường
• Bệnh nhân thực hiện kỹ thuật trưởng thành trứng trong ống nghiệm (IVM)


 Liên hệ để biết thêm chi tiết:
Lê Thuận - Phụ trách tư vấn
Mobile:     0938 994 298/ 093 77 66 056
Email:     P8@piyavate.com.vn
Address:  Số 2 Thi Sách, phường Bến Nghé, quận 1, Hồ Chí Minh
                 Tel: (84 8)66 812 591
                33A phạm Ngũ lão, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
                Tel: (84 8)66 812 591

Điều trị vô sinh hiếm muộn tại Thái Lan - 0938994298

Kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI)

Kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI) Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) được thực hiện thành công từ nằm 1978, đến nay, trên thế giới đã có trên 1 triệu em bé ra đời.

Từ ICSI được viết tắt từ Intra-cytoplasmic Sperm Injection, có nghĩa là tiêm tinh trùng trực tiếp vào nõan để tạo phôi. Với kỹ thuật này, các nhà khoa học có thể tạo ra phôi mà chỉ cần duy nhất 1 trứng và 1 tinh trùng. Kỹ thuật được thực hiện thành công đầu tiên vào những năm đầu thập niên 90. Chỉ vài năm sau đó, ICSI đã được triển khai khắp các nơi trên thế giới và cho đến nay đã trở thành một trong những kỹ thuật điều trị phổ biến nhất trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Hiệu quả của kỹ thuật ICSI
Tỉ lệ có thai của ICSI thường cao hơn một ít hoặc tương đương với kỹ thuật TTTON bình thường. Ngoại trừ những trường hợp dị dạng tinh trùng nặng thì dù tinh trùng lấy trong tinh dịch, trong mào tinh hay trong tinh hòan, tỉ lệ có thai đạt được cũng gần tương đương. Hay nói một cách khác, tỉ lệ thành công của ICSI ít phụ thuộc vào chất lượng và nguồn gốc tinh trùng. Như vậy, kỹ thuật ICSI có thể giúp một nam giới có chất lượng tinh trùng kém, thậm chí không có tinh trùng vẫn có khả năng có con như một nam giới có chất lượng tinh trùng tốt.

Với kỹ thuật TTTON bình thường, một số trường hợp tinh trùng không thể tự thụ tinh non do bất thường về thụ tinh, dẫn đến không có phôi để chuyển vào buồng tử cung. Với kỹ thuật ICSI, chúng ta có thể tránh gần như hoàn toàn các trường hợp trên.

Hơn nữa, một số nghiên cứu còn thấy rằng phôi hình thành từ kỹ thuật ICSI, khi trữ lạnh có khả năng sống cao hơn phôi hình thành từ kỹ thuật TTTON bình thường.

Khi nào cần thực hiện ICSI

ICSI được xem là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho các trường hợp vô sinh nam do các nguyên nhân khác nhau như:
  • Tất cả các trường hợp bất thường về số lượng và chức năng tinh trùng: tinh trùng ít, tinh trùng di động kém, tinh trùng dị dạng nhiều
  • Vô sinh nam do không có tinh trùng: không có tinh trùng trong tinh dịch, phải lấy tinh trùng bằng phẫu thuật

Ngoài ra ICSI hiện nay là chỉ định thường qui cho các trường hợp như:
·         Bất thường thụ tinh: tinh trùng của chồng và trứng của người vợ bình thường, nhưng không thụ tinh được hoặc tỉ lệ thụ tinh thấp; hoặc nghi ngờ có bất thường về thụ tinh giữa trứng và tinh trùng.
·         Vô sinh không rõ nguyên nhân.
·         Thất bại nhiều lần với TTTON bình thường

Một số các nguy cơ tìm ẩn của kỹ thuật ICSI
Từ khi kỹ thuật ICSI ra đời đến nay, đã có nhiều quan ngại về một số nguy cơ có thể có đối với kỹ thuật ICSI như: 
·         Trứng cơ thể bị tổn thương khi tiêm tinh trùng và ảnh hưởng đến chất lượng phôi.
·         Các trường hợp vô sinh nam có thể có nhiễm sắc thể và bệnh lý di truyền cao hơn bình thường. Khoảng 5-10% vô sinh nam do bất thường tinh trùng nặng (mật độ tinh trùng <5 triệu/ml), là có liên quan đến bệnh lý di truyền. Các bất thường này, có thể truyền sang con.
Tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể ở trẻ sinh ra do kỹ thuật ICSI có thể tăng nhẹ, đặc biệt ở các trường hợp tinh trùng yếu nặng, dị dạng. (Ở dân số bình thường, tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể thường khoảng 1 - 2%). 

Các trẻ sinh ra đầu tiên từ kỹ thuật ICSI trên thế giới đến nay đã trên 15 tuổi (từ năm 1992). Nhiều khảo sát về sự an toàn của kỹ thuật ICSI đã được thực hiện, có những khảo sát lớn thực hiện trên hàng ngàn trẻ, hầu hết đều cho thấy đây là một kỹ thuật tương đối an toàn, không làm tăng tỉ lệ dị tật bẩm sinh. Các nghiên cứu gần đây đều cho thấy các bé sinh ra từ kỹ thuật ICSI phát triển bình thường. Các nghiên cứu về sự phát triển của các bé này vẫn đang được tiếp tục tại nhiều trung tâm trên thế giới.

Kết luận
ICSI hiện nay là kỹ thuật phổ biến nhất trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Kỹ thuật này giúp điều trị cho hầu hết các trường hợp vô sinh do nam giới, ngoài ra còn góp phần tăng tỉ lệ thành công khi dùng điều trị cho vô sinh do nguyên nhân khác. Hiện nay, theo số liệu thống kê trên toàn thế giới, ICSI được xem là một kỹ thuật điều trị an toàn.

PIYAVATE sẽ giúp bạn biến mơ ước của mình thành hiện thực. Chúng tôi sẽ giúp mang một thiên thần đến với mái ấm của bạn.

 Liên hệ để biết thêm chi tiết:
Lê Thuận - Phụ trách tư vấn
Mobile:     0938 994 298/ 093 77 66 056
Email:     P8@piyavate.com.vn
Address:  Số 2 Thi Sách, phường Bến Nghé, quận 1, Hồ Chí Minh
                33A phạm Ngũ lão, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.


Điều trị vô sinh hiếm muộn

Ỹ THUẬT NUÔI TRƯỞNG THÀNH TRỨNG TRONG ỐNG NGHIỆM (IVM) TRONG ĐIỀU TRỊ VÔ SINH HIẾM MUỘN

1/ IVM là gì ?

IVM (In vitro maturation) là kỹ thuật nuôi trưởng thành trứng trong ống nghiệm. Kỹ thuật này được áp dụng lần đầu tiên tại Việt Nam năm 2006.
Trong kỹ thuật này, trứng được chọc hút từ các nang nhỏ, sau đó được nuôi cấy trong môi trường chuyên biệt đến giai đoạn trưởng thành. Các giai đoạn sau đó như tiêm tinh trùng vào trứng, nuôi và cấy phôi được thực hiện như một chu kỳ thụ tinh trong ống nghiện (TTTON) bình thường.

Về cơ bản IVM vẫn là một hình thức của kỹ thuật TTTON, nhưng với kỹ thuật này, bệnh nhân không cần phải thực hiện kích thích buồng trứng như phác đồ TTTON cổ điển. Việt nam hiện là một trong những nước đi đầu thế giới về kỹ thuật IVM. Ở Việt nam cho đến nay ước tính đã có trên 100 em bé ra đời từ kỹ thuật IVM.

2/ Một số điều ưu điểm của IVM so với TTTON bình thường:
  • An toàn, không bị hội chứng quá kích buồng trứng: quá kích buồng trứng là tình trạng đáp ứng quá mức với thuốc kích thích buồng trứng, có nhiều mức độ khác nhau, chi phí điều trị cao và nặng nhất có thể gây tử vong. Kỹ thuật IVM  không cần kích thích buồng trứng hay kích thich nhẹ nên bệnh nhân không bị quá kích buồng trứng.
  • Chi phí thấp hơn do tiêm ít thuốc và thời gian tiêm thuốc ngắn hơn: thời gian tiêm thuốc trong TTTON bình thường kéo dài 2-4 tuần để nang trứng phát triển, sau đó mới chọc hút trứng trưởng thành. IVM không cần kích thích buồng trứng hay chỉ cần kích thích nhẹ, liều thuốc thấp và thời gian tiêm thuốc ngắn.
  • Thuận tiện hơn do thời gian điều trị ngắn, bệnh nhân không phải đi lại khám và theo dõi nhiều lần như phác đồ TTTON cổ điển.

Chính vì những ưu điểm trên nên IVM có thể được xem là kỹ thuật “thân thiện” với bệnh nhân và có thể thay thế TTTON thông thường trong nhiều trường hợp.

3/ Hiệu quả của kỹ thuật IVM ?  


Bệnh nhân thường băn khoăn “khi nào thì làm IVM hay TTTON thông thường?”. Thực tế, kỹ thuật IVM có thể áp dụng nhiều chỉ định khác nhau. Tuy nhiên, nhóm bệnh nhân có tỷ lệ thành công cao và thích hợp làm IVM là những bệnh nhân nguy cơ bị hội chứng quá kích buồng trứng khi kích thích buồng trứng để thực hiện TTTON, đặc biệt bệnh nhân bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS). Ở những bệnh nhân này, buồng trứng có rất nhiều nang nhỏ và khi tiêm thuốc kích thích trứng, các nang có khuynh hướng phát triển cùng lúc và gây hội chứng quá kích buồng trứng.

Theo kết quả của các nghiên cứu trên thế giới cho đến thời điểm hiện nay, trẻ sinh ra từ kỹ thuật IVM phát triển thể chất, tâm thần và vận động không khác biệt so với những trẻ sinh ra từ TTTON thông thường hay những trẻ sinh tự nhiên. Tuy nhiên, tỉ lệ làm tổ của phôi trong kỹ thuật IVM có thể thấp hơn, do đó, đa số trường hợp phải chuyển nhiều phôi vào tử cung hơn thông thường. Theo phác đồ của chúng tôi hiện nay, số phôi cấy trung bình vào buồng tử cung là từ 3-4 phôi..

Kỹ thuật IVM được xem là một tiến bộ lớn trong điều trị hiếm muộn – vô sinh. Với kỹ thuật này, bệnh nhân sẽ được điều trị an toàn hơn, với chi phí thấp hơn, và thuận tiện hơn. Hiện nay, IVM bắt đầu được mở rộng ra các chỉ định khác để có thêm nhiều sự lựa chọn trong điều trị, đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân.


Liên hệ: 
Lê Thuận – Nhân viên tư vấn 24/24
Mobile: 0938.994.298/ 093.77.66.056
Email : p8@piyavate.com.vn
YM : bvpiyavate2@yahoo.com
Skype: bvpiyavate2

Địa điểm:
 VP ại TP Hồ Chí Minh  : Số 2 Thi Sách,    Phường Bến Nghé, Quận 1
Tel: (84 8)66 812 591
VP tại Hà Nội :  33A Phạm Ngũ Lão, Quận Hoàn Kiếm
Tel: (84 8)66 812 591
  Website :  piyavate.com.vn

Sinh con trai theo ý muốn


Sinh con theo ý muốn tại Thái Lan  


Không những có thể sinh con trai hoặc gái theo ý muốn, những cặp vợ chồng theo phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) còn có thể loại trừ những trường hợp khuyết tật, dị tật bất thường hoặc do di truyền. Thậm chí có những ca bệnh nhân HIV muốn sinh con, phương pháp TTTON hoàn toàn cho ra những thai nhi khoẻ mạnh, không nhiễm bệnh.
Đây là lần thứ hai vợ chồng anh chị M. từ Hà Nội sang bệnh viện PIYAVATE, Bangkok, Thái Lan để tiếp tục thực hiện bước 2 của ca TTTON. Hơn 10 ngày trước, anh chị M đã đến bệnh viện Piyavate để tiến hành các yêu cầu xét nghiệm. Chị M tâm sự: “Vợ chồng em đã có một đứa con gái. Hơn 10 năm qua, chúng em cố gắng kiếm thêm một đứa nhưng không được. Nghe bạn bè giới thiệu, vợ chồng em sang đây, làm TTTON chọn giới tính để mong tìm một bé trai” .

Bác sĩ khoa hiếm muộn bệnh viện PIYAVATE giải thích: “Quy trình TTTON bao gồm 3 giai đoạn: giai đoạn 1, vào ngày thứ hai của chu kỳ kinh nguyệt, cả hai vợ chồng sẽ được làm một số xét nghiệm. Nếu kết quả tốt đẹp, bác sĩ sẽ cho thuốc tiêm trong khoảng 7 ngày. Giai đoạn 2 là giai đoạn chọc hút trứng và lấy tinh trùng để cấy ghép phôi. Sau đó, phôi được nuôi trong 5-6 ngày bằng phương pháp Blastocyst. Giai đoạn 3 sẽ chuyển phôi vào người mẹ. Sau 14 ngày, người vợ thử máu sẽ biết được mình có thai hay không? Quá trình sinh con sau đó diễn ra bình thường”.

Bác sĩ giới thiệu thêm: Đối với các ca can thiệp giới tính và loại trừ những trường hợp khuyết tật, dị tật bất thường hoặc do di truyền, bác sĩ sẽ xét nghiệm gien trước khi cấy ghép. Từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5, bác sĩ sẽ tiếp tục kiểm tra phôi đã cấy ghép bằng cách lấy một tế bào ngoài phôi để xét nghiệm mà không làm ảnh hưởng đến phôi.

- Giá cả điều trị dao động từ 12.000 -13.000 USD tuỳ theo liều thuốc cần dùng
- Giá phòng nghỉ tại khách sạn của bệnh viện khoảng 64 USD/ngày
- Giá căn hộ chung cư từ 33 -40USD/ ngày
Đặc biệt, đối với những ca bị HIV, trứng sau khi chọc hút (trường hợp vợ bị nhiễm) sẽ được rửa sạch lớp dịch bao quanh và tinh trùng (đối với chồng bị nhiễm) sẽ được lọc hai lần và lựa chọn từng con khi cấy ghép vào trứng. Bệnh viện đã thực hiện thành công bằng phương pháp này cho 2 ca bệnh nhân bị nhiễm HIV là người Việt Nam.
Bác sĩ tự tin khẳng định: “Tỷ lệ thành công của các ca TTTON của bệnh viện PIYAVATE cao hơn từ 5%- 10% so với các bệnh viện khác. Điểm ưu việt đó chính là phương pháp Blastocyst nuôi phôi trong thời gian khá dài từ 5-6 ngày, trong khi các nơi khác chỉ nuôi trong vòng 2 ngày. Để làm được điều này đòi hỏi phải có một đội ngũ y bác sĩ và nhân viên giỏi và điều kiện thuốc men, trang thiết bị hoàn hảo. Ngay tại Bangkok chỉ có 2 trung tâm làm được điều này”.
Cũng theo bác sĩ, việc chuyển nhiều phôi chỉ được thực hiện sau khi bác sĩ đã hội ý với bệnh nhân, do vậy không thể xảy ra tình trạng chuyển quá nhiều phôi dẫn đến sinh đôi, sinh ba… ngoài ý muốn.
Bệnh viện PIYAVATE  có một hệ thống khách sạn cao cấp dành cho bệnh nhân. Tuy nhiên đa số bệnh nhân Việt Nam lại thích thuê khu chung cư cao cấp ngay phía sau bệnh viện để lưu trú vì giá cả mềm hơn và được tự do trong sinh hoạt.
Nhân viên phiên dịch người Việt Nam công tác tại PIYAVATE cho biết: “Bệnh viện có văn phòng đại diện tại Việt Nam. Mọi bệnh nhân tại Việt Nam sẽ được tư vấn trước. Khi sang Bangkok sẽ có nhân viên và xe của bệnh viện đưa đón tại sân bay, lo mọi thủ tục cần thiết và giới thiệu chỗ ăn nghỉ thuận tiện. Nói chung bệnh viện cố gắng hết sức mình để đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của bệnh nhân, nhất là bệnh nhân từ Việt Nam”.

Liên hệ để biết thêm chi tiết:
Lê Thuận - Phụ trách tư vấn
Mobile:     0938 994 298/ 093 77 66 056
Email:     P8@piyavate.com.vn
Address:  Số 2 Thi Sách, phường Bến Nghé, quận 1, Hồ Chí Minh
                 Tel: (84 8)66 812 591
                33A phạm Ngũ lão, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
                Tel: (84 8)66 812 591